Chuyển đổi số trong Thư viện ở Đại học Thuỷ lợi Chuyển đổi số trong Thư viện ở Đại học Thuỷ lợi Bài báo "Chuyển đổi số trong Thư viện ở Đại học Thuỷ lợi" của tác giả Vũ Thị Thu Thuỷ được đăng trên Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2021 (tr.379-381). Bài báo đã phân tích hiện trạng và những khó khăn, thách thức của Thư viện ĐHTL, từ đó tác giả đã đề xuất những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ, góp phần vào nâng cao chất lượng dạy, học và nghiên cứu khoa học của Nhà trường. 1. GIỚI THIỆU CHUNG Chuyển đổi số được hiểu là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của tổ chức, cá nhân về cách làm việc, cách sống dựa trên các công nghệ số [1]. Trong chương trình chuyển đổi số chung của cả nước, các bộ, ngành đều đề ra những mục tiêu cụ thể cho ngành mình. Để đáp ứng những mục tiêu chuyển đổi số của ngành giáo dục, ngành thư viện và yêu cầu của Nhà trường, Thư viện Trường Đại học Thủy lợi (ĐHTL) cần ứng dụng mạnh mẽ, toàn diện công nghệ thông tin (CNTT) trong mọi hoạt động để trở thành một Thư viện hiện đại, thông minh, thực sự là trung tâm tri thức của Trường, cung cấp, phổ biến đầy đủ, đa dạng các nguồn tài liệu, phát triển mạnh tài nguyên số phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học, thu hút và phục vụ người dùng không hạn chế về không gian, thời gian. Bài báo này sẽ phân tích hiện trạng và từ đó đưa ra những giải pháp Thư viện cần thực hiện để đạt được mục tiêu trên. Bốn yếu tố cơ bản quyết định đến sự thành công trong công tác chuyển đổi số của Thư viện sẽ được phân tích là: nền tảng công nghệ; nguồn tài liệu; con người; không gian và dịch vụ thư viện. 2. HIỆN TRẠNG * Nền tảng công nghệ là yếu tố quan trọng để triển khai ứng dụng CNTT. Nó bao gồm: hạ tầng phần cứng, các phần mềm quản lý, hệ thống mạng và hệ thống lưu trữ. Về hạ tầng phần cứng,Thư viện được đầu tư hệ thống cổng giám sát an ninh và 2 máy mượn/trả tự động. Hệ thống máy này được tích hợp với phần mềm ALEPH nên đã phát huy tối đa hiệu quả sử dụng. Đây là một bước tiến, đưa Thư viện tiếp cận với công nghệ thông minh, mà chỉ số ít các thư viện của các trường đại học (ĐH) phía Bắc có được. Phần mềm quản lý thư viện gồm ALEPH quản lý tài liệu in và DSPACE quản lý tài liệu số. ALEPH là phần mềm mạnh hội tụ đủ các tiêu chuẩn ngành thư viện và đảm bảo về mặt an toàn dữ liệu, bảo mật cao. Còn DSPACE trong thời gian vừa qua đã phát huy hiệu quả trong việc phục vụ tài liệu số cho việc dạy/ học online. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều tồn tại để có thể triển khai ứng dụng CNTT một cách đồng bộ. Mạng internet của Thư viện chưa đáp ứng được số lượng truy cập của đông sinh viên (SV), khoảng 800 SV vào mùa thi, mạng rất chậm do hệ thống wifi quá tải. Hai phần mềm tra cứu ALEPH và DSPACE đang độc lập nhau gây bất tiện cho người dùng. ALEPH chưa có cổng chuẩn để kết nối với các phần mềm khác trong trường hay liên kết với các thư viện khác ở trong và ngoài nước. ALEPH chỉ có một số module cơ bản nhưng lại thiếu module Báo cáo đã dẫn đến nhiều khó khăn cho truy xuất dữ liệu để tạo các báo cáo cần cho quản lý. Việc quản lý về biên soạn tài liệu giảng dạy, mua sách và xuất bản sách hiện nay đang được thực hiện thủ công. Còn nhiều thủ tục hành chính liên quan đến các phòng ban cần được tự động hóa để tăng hiệu quả công việc và giảm thời gian đi lại của các bộ môn. * Chuyển đổi số trong giáo dục và trong các trường ĐH gắn liền với việc hình thành và phát triển kho học liệu số để dễ dàng chia sẻ và tiếp cận từ xa. Điều này càng cần thiết hơn trong bối cảnh dịch bệnh đang diễn ra phức tạp, khi dạy và học đều thực hiện online và SV không thể đến trường để mượn sách in. Để phát triển nguồn tài nguyên điện tử, Thư viện có thuận lợi có thể bổ sung từ nguồn sách, bài giảng do các bộ môn viết; luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu sinh, giảng viên trong Trường. Chính vì vậy, chỉ sau hơn 18 tháng mở thư viện số, số tài liệu điện tử hiện có đã đạt 6.917 đầu, trong đó bài giảng điện tử có 947 đầu, sách điện tử có 243 đầu. Số lượng bạn đọc truy cập vào Thư viện số tăng cao trong năm học 2020-2021 đạt 555.154 lượt. Ngoài ra, Thư viện còn kết nối với Tạp chí Khoa học Thủy lợi và Môi trường của Trường, kết nối với Thư viện số của ĐH Quốc gia, và của Bộ NN&PTNT. Trong năm qua, Thư viện có tham gia kết nối với cơ sở dữ liệu dùng chung tạp chí điện tử quốc tế SAGE và sách điện tử quốc tế đa ngành của nhà xuất bản IG (với 6000 đầu), đây là nguồn dữ liệu lớn để các giảng viên, SV trong trường khai thác. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, Thư viện gặp phải những khó khăn trong việc phát triển kho sách điện tử phục vụ dạy/học. Số sách điện tử hiện có chỉ đáp ứng được khoảng 20% lượng giáo trình điện tử yêu cầu theo môn học. Các sách dùng cho các môn học đa phần là sách in do mua từ các Nhà xuất bản (NXB) và các đơn vị cung cấp tài liệu, còn lại là các sách dịch. Thư viện không có bản quyền để có thể đưa lên thư viện số tài liệu số hóa từ bản giấy nếu có. Trong khi đó, các NXB hiện nay cũng mới triển khai làm các sách điện tử, số lượng không nhiều và muốn quản lý để bán theo số lượng truy cập. * Con người là yếu tố đầu tiên và quan trọng trong lộ trình chuyển đổi số. Người lãnh đạo đơn vị cần phải có tư duy nhận thức đúng về chuyển đổi số. Từ đó họ mới có thể truyền nhận thức và quyết tâm thay đổi tới các nhân viên trong đơn vị [1]. Tháng 5/2021, Ban chỉ đạo chuyển đổi số của ĐHTL đã được thành lập. Nhận thức về đổi mới toàn diện trong hoạt động cùng với đẩy mạnh CNTT đã được ủng hộ bởi tất cả lãnh đạo các phòng, khoa, ban. Đây là một thuận lợi lớn cho việc xây dựng chiến lược và lập kế hoạch chuyển đổi số. Tuy nhiên việc truyền bá, phổ biến thông tin về chuyển đổi số còn chưa được rộng rãi trong toàn trường. Ngoài ra, hạn chế về năng lực CNTT của một bộ phận cán bộ Thư viện cũng ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi số. Cán bộ Thư viện phần lớn phục vụ bạn đọc mượn trả sách trực tiếp, hướng dẫn tra cứu tìm sách. Do SV có thói quen dùng sách in, ít quan tâm đến các tài liệu điện tử có sẵn trong thư viện. Chỉ đến khi việc dạy và học online được triển khai SV mới thấy tầm quan trọng của các bài giảng / sách điện tử và sử dụng nhiều hơn. * Không gian và dịch vụ thư viện phong phú là những yếu tố để tạo sự hấp dẫn bạn đọc đến thư viện. Hiện tại, không gian vật lý và không gian ảo trên mạng của Thư viện ĐHTL tương tự như tại nhiều ĐH công lập khác, chưa hiện đại và hấp dẫn. Cùng với đó, dịch vụ thư viện chưa phong phú, các tiện ích phục vụ bạn đọc vẫn thiên về các dịch vụ mượn sách in. Các hoạt động hỗ trợ học tập, nghiên cứu, sáng tạo, kết nối chưa nhiều. Các sự kiện quảng bá về thư viện, về sách và các tài liệu điện tử còn hạn chế. Việc liên kết giữa các thư viện vẫn chưa thực chất. 3. GIẢI PHÁP Từ hiện trạng nêu trên cho thấy nhiều điểm còn thiếu, còn hạn chế trong cả bốn khía cạnh. Do vậy, tác giả đề xuất các giải pháp cần thực hiện để có thể chuyển đổi số thành công cho Thư viện ĐHTL như sau: Thứ nhất, để ứng dụng CNTT toàn diện vào các hoạt động của thư viện, nền tảng công nghệ cần được đầu tư, nâng cấp đồng bộ. Hệ thống mạng internet của Thư viện cần được nâng cấp để có khả năng phục vụ số lượng SV vào truy cập ở mức 800 SV cùng lúc với tốc độ cao. Các phần mềm quản lý thư viện cần được liên kết, tích hợp với nhau bằng một giao diện phần mềm tra cứu tập trung để thuận lợi và giảm thời gian tìm kiếm tài liệu. Thiết lập cổng chuẩn cho phần mềm để kết nối với các phần mềm khác trong trường và liên kết với các thư viện khác ở trong và ngoài nước. Phần mềm ALEPH cần được bổ sung thêm module Báo cáo để có thể xuất các báo cáo với mức độ tùy biến cao. Các quy trình, thủ tục và việc quản lý quá trình biên soạn tài liệu giảng dạy, mua và xuất bản sách của các bộ môn cần được xây dựng, thực hiện và quản lý bằng phần mềm. Thứ hai, để phát triển các kho học liệu số, học liệu mở chia sẻ, thì vấn đề bản quyền trong số hóa tài liệu cần được giải quyết. Luật sở hữu trí tuệ cần có sự linh hoạt hơn trong việc cho phép các thư viện số hóa tài liệu và được truyền bá mà không phải xin phép và trả phí vì mục đích dạy, học và nghiên cứu. Chuyển hướng dần từ mua các sách in sang các sách điện tử. Liên kết với các NXB để dùng chung các CSDL số với mức chi phí hợp lý. Việc kết nối liên thông giữa các thư viện một cách thực chất cũng là một giải pháp để chia sẻ, trao đổi, tăng cường nguồn tài liệu số đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và tránh lãng phí nguồn tài nguyên. Các dữ liệu, tài nguyên số của các thư viện sau khi được đánh giá và thẩm định nên được tập hợp để tạo thành kho tài nguyên số quốc gia. Thứ ba là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về chuyển đổi số trong toàn trường để mọi người cùng đồng lòng trong quá trình lên kế hoạch và triển khai thực hiện. Đối với các cán bộ Thư viện và người dùng cần được đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức và kỹ năng CNTT. Tuyên truyền, quảng bá về các loại tài liệu của Thư viện trên truyền thông qua nhiều kênh khác nhau, tổ chức, lồng ghép trong các hoạt động, sự kiện liên quan. Thứ tư, không gian Thư viện cần được thiết kế, cải tạo lại một cách tổng thể để thu hút người dùng. Tích hợp được các giá trị truyền thống, tầm nhìn của ĐHTL với việc quản lý, vận hành tự động, thông minh, kết nối phần cứng và phần mềm với các thiết bị cá nhân của người dùng. Không gian và các phòng của Thư viện có thêm các chức năng cho đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp, kết nối, giao lưu, chia sẻ học thuật. Không gian ảo sẽ ứng dụng nền tảng CNTT như IoT, AI, chatbot, trợ lý ảo với hệ sinh thái dữ liệu, hệ sinh thái người dùng cả trong và ngoài trường [2]. Các sản phẩm dịch vụ truyền thống của thư viện cần được nâng cao để áp dụng công nghệ thông minh, kết nối với điện thoại thông minh nhằm nâng cao chất lượng phục vụ. Các sản phẩm dịch vụ trong thư viện hiện đại cần mở rộng, đa dạng và phong phú hơn, lấy người dùng tin làm trung tâm, đề cao tính tương tác, thích ứng người dùng, tiếp cận thông tin ở mọi lúc mọi nơi [2]. 4. KẾT LUẬN Bài báo đã phân tích hiện trạng và những khó khăn, thách thức của Thư viện ĐHTL về bốn yếu tố cơ bản trong quá trình chuyển đổi số: nền tảng công nghệ, nguồn tài liệu, con người, không gian và dịch vụ thư viện. Từ đó tác giả đã đề xuất những giải pháp cụ thể cho bốn vấn đề trên. Về nền tảng công nghệ, cần đầu tư nâng cấp hệ thống mạng cũng như phần mềm quản lý thư viện, có kết nối với các điện thoại thông minh của người dùng. Để phát triển nguồn học liệu số cần liên kết, chia sẻ với các NXB và với các thư viện ĐH khác. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về chuyển đổi số trong toàn trường. Các cán bộ Thư viện và người dùng cần được đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức và kỹ năng CNTT phù hợp với môi trường số. Không gian thực và ảo của Thư viện cần được cải tạo, thiết kế lại để thu hút hấp dẫn hơn. Cùng với đó là dịch vụ thư viện cần được nâng cao, mở rộng, đa dạng và phong phú hơn. Việc thực thi các giải pháp trên sẽ đảm bảo thành công quá trình chuyển đổi số của Thư viện ĐHTL để nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ, góp phần vào nâng cao chất lượng dạy, học và nghiên cứu khoa học của Nhà trường. 5. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] 2020. Cẩm nang chuyển đổi số, Bộ thông tin và truyền thông, NXB Thông tin và truyền thông. [2] Hoàng Văn Dưỡng. 2020. Phát triển trung tâm tri thức - Thư viện trong trường ĐH. Phát triển trung tâm tri thức số cho các thư viện Việt Nam. NXB ĐH Quốc gia Hà Nội. Vũ Thị Thu Thủy Trường Đại học Thủy lợi Bài báo "Chuyển đổi số trong Thư viện ở Đại học Thuỷ lợi" của tác giả Vũ Thị Thu Thuỷ được đăng trên Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2021 (tr.379-381). Bài báo đã phân tích hiện trạng và những khó khăn, thách thức của Thư viện ĐHTL, từ đó tác giả đã đề xuất những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ, góp phần vào nâng cao chất lượng dạy, học và nghiên cứu khoa học của Nhà trường. 1. GIỚI THIỆU CHUNG Chuyển đổi số được hiểu là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của tổ chức, cá nhân về cách làm việc, cách sống dựa trên các công nghệ số [1]. Trong chương trình chuyển đổi số chung của cả nước, các bộ, ngành đều đề ra những mục tiêu cụ thể cho ngành mình. Để đáp ứng những mục tiêu chuyển đổi số của ngành giáo dục, ngành thư viện và yêu cầu của Nhà trường, Thư viện Trường Đại học Thủy lợi (ĐHTL) cần ứng dụng mạnh mẽ, toàn diện công nghệ thông tin (CNTT) trong mọi hoạt động để trở thành một Thư viện hiện đại, thông minh, thực sự là trung tâm tri thức của Trường, cung cấp, phổ biến đầy đủ, đa dạng các nguồn tài liệu, phát triển mạnh tài nguyên số phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học, thu hút và phục vụ người dùng không hạn chế về không gian, thời gian. Bài báo này sẽ phân tích hiện trạng và từ đó đưa ra những giải pháp Thư viện cần thực hiện để đạt được mục tiêu trên. Bốn yếu tố cơ bản quyết định đến sự thành công trong công tác chuyển đổi số của Thư viện sẽ được phân tích là: nền tảng công nghệ; nguồn tài liệu; con người; không gian và dịch vụ thư viện. 2. HIỆN TRẠNG * Nền tảng công nghệ là yếu tố quan trọng để triển khai ứng dụng CNTT. Nó bao gồm: hạ tầng phần cứng, các phần mềm quản lý, hệ thống mạng và hệ thống lưu trữ. Về hạ tầng phần cứng,Thư viện được đầu tư hệ thống cổng giám sát an ninh và 2 máy mượn/trả tự động. Hệ thống máy này được tích hợp với phần mềm ALEPH nên đã phát huy tối đa hiệu quả sử dụng. Đây là một bước tiến, đưa Thư viện tiếp cận với công nghệ thông minh, mà chỉ số ít các thư viện của các trường đại học (ĐH) phía Bắc có được. Phần mềm quản lý thư viện gồm ALEPH quản lý tài liệu in và DSPACE quản lý tài liệu số. ALEPH là phần mềm mạnh hội tụ đủ các tiêu chuẩn ngành thư viện và đảm bảo về mặt an toàn dữ liệu, bảo mật cao. Còn DSPACE trong thời gian vừa qua đã phát huy hiệu quả trong việc phục vụ tài liệu số cho việc dạy/ học online. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều tồn tại để có thể triển khai ứng dụng CNTT một cách đồng bộ. Mạng internet của Thư viện chưa đáp ứng được số lượng truy cập của đông sinh viên (SV), khoảng 800 SV vào mùa thi, mạng rất chậm do hệ thống wifi quá tải. Hai phần mềm tra cứu ALEPH và DSPACE đang độc lập nhau gây bất tiện cho người dùng. ALEPH chưa có cổng chuẩn để kết nối với các phần mềm khác trong trường hay liên kết với các thư viện khác ở trong và ngoài nước. ALEPH chỉ có một số module cơ bản nhưng lại thiếu module Báo cáo đã dẫn đến nhiều khó khăn cho truy xuất dữ liệu để tạo các báo cáo cần cho quản lý. Việc quản lý về biên soạn tài liệu giảng dạy, mua sách và xuất bản sách hiện nay đang được thực hiện thủ công. Còn nhiều thủ tục hành chính liên quan đến các phòng ban cần được tự động hóa để tăng hiệu quả công việc và giảm thời gian đi lại của các bộ môn. * Chuyển đổi số trong giáo dục và trong các trường ĐH gắn liền với việc hình thành và phát triển kho học liệu số để dễ dàng chia sẻ và tiếp cận từ xa. Điều này càng cần thiết hơn trong bối cảnh dịch bệnh đang diễn ra phức tạp, khi dạy và học đều thực hiện online và SV không thể đến trường để mượn sách in. Để phát triển nguồn tài nguyên điện tử, Thư viện có thuận lợi có thể bổ sung từ nguồn sách, bài giảng do các bộ môn viết; luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu sinh, giảng viên trong Trường. Chính vì vậy, chỉ sau hơn 18 tháng mở thư viện số, số tài liệu điện tử hiện có đã đạt 6.917 đầu, trong đó bài giảng điện tử có 947 đầu, sách điện tử có 243 đầu. Số lượng bạn đọc truy cập vào Thư viện số tăng cao trong năm học 2020-2021 đạt 555.154 lượt. Ngoài ra, Thư viện còn kết nối với Tạp chí Khoa học Thủy lợi và Môi trường của Trường, kết nối với Thư viện số của ĐH Quốc gia, và của Bộ NN&PTNT. Trong năm qua, Thư viện có tham gia kết nối với cơ sở dữ liệu dùng chung tạp chí điện tử quốc tế SAGE và sách điện tử quốc tế đa ngành của nhà xuất bản IG (với 6000 đầu), đây là nguồn dữ liệu lớn để các giảng viên, SV trong trường khai thác. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, Thư viện gặp phải những khó khăn trong việc phát triển kho sách điện tử phục vụ dạy/học. Số sách điện tử hiện có chỉ đáp ứng được khoảng 20% lượng giáo trình điện tử yêu cầu theo môn học. Các sách dùng cho các môn học đa phần là sách in do mua từ các Nhà xuất bản (NXB) và các đơn vị cung cấp tài liệu, còn lại là các sách dịch. Thư viện không có bản quyền để có thể đưa lên thư viện số tài liệu số hóa từ bản giấy nếu có. Trong khi đó, các NXB hiện nay cũng mới triển khai làm các sách điện tử, số lượng không nhiều và muốn quản lý để bán theo số lượng truy cập. * Con người là yếu tố đầu tiên và quan trọng trong lộ trình chuyển đổi số. Người lãnh đạo đơn vị cần phải có tư duy nhận thức đúng về chuyển đổi số. Từ đó họ mới có thể truyền nhận thức và quyết tâm thay đổi tới các nhân viên trong đơn vị [1]. Tháng 5/2021, Ban chỉ đạo chuyển đổi số của ĐHTL đã được thành lập. Nhận thức về đổi mới toàn diện trong hoạt động cùng với đẩy mạnh CNTT đã được ủng hộ bởi tất cả lãnh đạo các phòng, khoa, ban. Đây là một thuận lợi lớn cho việc xây dựng chiến lược và lập kế hoạch chuyển đổi số. Tuy nhiên việc truyền bá, phổ biến thông tin về chuyển đổi số còn chưa được rộng rãi trong toàn trường. Ngoài ra, hạn chế về năng lực CNTT của một bộ phận cán bộ Thư viện cũng ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi số. Cán bộ Thư viện phần lớn phục vụ bạn đọc mượn trả sách trực tiếp, hướng dẫn tra cứu tìm sách. Do SV có thói quen dùng sách in, ít quan tâm đến các tài liệu điện tử có sẵn trong thư viện. Chỉ đến khi việc dạy và học online được triển khai SV mới thấy tầm quan trọng của các bài giảng / sách điện tử và sử dụng nhiều hơn. * Không gian và dịch vụ thư viện phong phú là những yếu tố để tạo sự hấp dẫn bạn đọc đến thư viện. Hiện tại, không gian vật lý và không gian ảo trên mạng của Thư viện ĐHTL tương tự như tại nhiều ĐH công lập khác, chưa hiện đại và hấp dẫn. Cùng với đó, dịch vụ thư viện chưa phong phú, các tiện ích phục vụ bạn đọc vẫn thiên về các dịch vụ mượn sách in. Các hoạt động hỗ trợ học tập, nghiên cứu, sáng tạo, kết nối chưa nhiều. Các sự kiện quảng bá về thư viện, về sách và các tài liệu điện tử còn hạn chế. Việc liên kết giữa các thư viện vẫn chưa thực chất. 3. GIẢI PHÁP Từ hiện trạng nêu trên cho thấy nhiều điểm còn thiếu, còn hạn chế trong cả bốn khía cạnh. Do vậy, tác giả đề xuất các giải pháp cần thực hiện để có thể chuyển đổi số thành công cho Thư viện ĐHTL như sau: Thứ nhất, để ứng dụng CNTT toàn diện vào các hoạt động của thư viện, nền tảng công nghệ cần được đầu tư, nâng cấp đồng bộ. Hệ thống mạng internet của Thư viện cần được nâng cấp để có khả năng phục vụ số lượng SV vào truy cập ở mức 800 SV cùng lúc với tốc độ cao. Các phần mềm quản lý thư viện cần được liên kết, tích hợp với nhau bằng một giao diện phần mềm tra cứu tập trung để thuận lợi và giảm thời gian tìm kiếm tài liệu. Thiết lập cổng chuẩn cho phần mềm để kết nối với các phần mềm khác trong trường và liên kết với các thư viện khác ở trong và ngoài nước. Phần mềm ALEPH cần được bổ sung thêm module Báo cáo để có thể xuất các báo cáo với mức độ tùy biến cao. Các quy trình, thủ tục và việc quản lý quá trình biên soạn tài liệu giảng dạy, mua và xuất bản sách của các bộ môn cần được xây dựng, thực hiện và quản lý bằng phần mềm. Thứ hai, để phát triển các kho học liệu số, học liệu mở chia sẻ, thì vấn đề bản quyền trong số hóa tài liệu cần được giải quyết. Luật sở hữu trí tuệ cần có sự linh hoạt hơn trong việc cho phép các thư viện số hóa tài liệu và được truyền bá mà không phải xin phép và trả phí vì mục đích dạy, học và nghiên cứu. Chuyển hướng dần từ mua các sách in sang các sách điện tử. Liên kết với các NXB để dùng chung các CSDL số với mức chi phí hợp lý. Việc kết nối liên thông giữa các thư viện một cách thực chất cũng là một giải pháp để chia sẻ, trao đổi, tăng cường nguồn tài liệu số đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và tránh lãng phí nguồn tài nguyên. Các dữ liệu, tài nguyên số của các thư viện sau khi được đánh giá và thẩm định nên được tập hợp để tạo thành kho tài nguyên số quốc gia. Thứ ba là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về chuyển đổi số trong toàn trường để mọi người cùng đồng lòng trong quá trình lên kế hoạch và triển khai thực hiện. Đối với các cán bộ Thư viện và người dùng cần được đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức và kỹ năng CNTT. Tuyên truyền, quảng bá về các loại tài liệu của Thư viện trên truyền thông qua nhiều kênh khác nhau, tổ chức, lồng ghép trong các hoạt động, sự kiện liên quan. Thứ tư, không gian Thư viện cần được thiết kế, cải tạo lại một cách tổng thể để thu hút người dùng. Tích hợp được các giá trị truyền thống, tầm nhìn của ĐHTL với việc quản lý, vận hành tự động, thông minh, kết nối phần cứng và phần mềm với các thiết bị cá nhân của người dùng. Không gian và các phòng của Thư viện có thêm các chức năng cho đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp, kết nối, giao lưu, chia sẻ học thuật. Không gian ảo sẽ ứng dụng nền tảng CNTT như IoT, AI, chatbot, trợ lý ảo với hệ sinh thái dữ liệu, hệ sinh thái người dùng cả trong và ngoài trường [2]. Các sản phẩm dịch vụ truyền thống của thư viện cần được nâng cao để áp dụng công nghệ thông minh, kết nối với điện thoại thông minh nhằm nâng cao chất lượng phục vụ. Các sản phẩm dịch vụ trong thư viện hiện đại cần mở rộng, đa dạng và phong phú hơn, lấy người dùng tin làm trung tâm, đề cao tính tương tác, thích ứng người dùng, tiếp cận thông tin ở mọi lúc mọi nơi [2]. 4. KẾT LUẬN Bài báo đã phân tích hiện trạng và những khó khăn, thách thức của Thư viện ĐHTL về bốn yếu tố cơ bản trong quá trình chuyển đổi số: nền tảng công nghệ, nguồn tài liệu, con người, không gian và dịch vụ thư viện. Từ đó tác giả đã đề xuất những giải pháp cụ thể cho bốn vấn đề trên. Về nền tảng công nghệ, cần đầu tư nâng cấp hệ thống mạng cũng như phần mềm quản lý thư viện, có kết nối với các điện thoại thông minh của người dùng. Để phát triển nguồn học liệu số cần liên kết, chia sẻ với các NXB và với các thư viện ĐH khác. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về chuyển đổi số trong toàn trường. Các cán bộ Thư viện và người dùng cần được đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức và kỹ năng CNTT phù hợp với môi trường số. Không gian thực và ảo của Thư viện cần được cải tạo, thiết kế lại để thu hút hấp dẫn hơn. Cùng với đó là dịch vụ thư viện cần được nâng cao, mở rộng, đa dạng và phong phú hơn. Việc thực thi các giải pháp trên sẽ đảm bảo thành công quá trình chuyển đổi số của Thư viện ĐHTL để nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ, góp phần vào nâng cao chất lượng dạy, học và nghiên cứu khoa học của Nhà trường. 5. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] 2020. Cẩm nang chuyển đổi số, Bộ thông tin và truyền thông, NXB Thông tin và truyền thông. [2] Hoàng Văn Dưỡng. 2020. Phát triển trung tâm tri thức - Thư viện trong trường ĐH. Phát triển trung tâm tri thức số cho các thư viện Việt Nam. NXB ĐH Quốc gia Hà Nội. Vũ Thị Thu Thủy Trường Đại học Thủy lợi Trở về đầu trang