Nghiên cứu áp dụng sơ đồ ban đầu hoá xoáy NC2011 trong mô hình WRF để khảo sát khả năng dự báo cường độ cơn bão DAMREY năm 2017 Nghiên cứu áp dụng sơ đồ ban đầu hoá xoáy NC2011 trong mô hình WRF để khảo sát khả năng dự báo cường độ cơn bão DAMREY năm 2017 Trong bài báo này nhóm tác giả trình bày một số kết quả thử nghiệm áp dụng sơ đồ ban đầu hóa bão NC2011 để mô phỏng cấu trúc cơn bão số 12 (Damrey) năm 2017 bằng mô hình WRF với ba sơ đồ tham số hóa đối lưu Betts-Miller-Janjic, Kain-Fritsch và Grell-Devenyi. Kết quả cho thấy mô phỏng trị số khí áp cực tiểu tại tâm bão khá tốt đặc biệt với sơ đồ Betts-Miller-Janjic. Trong giai đoạn phát triển và chín muồi mô hình mô phỏng bão mạnh hơn so với thực tế, khi bão suy yếu và tan rã, mô phỏng của mô hì Thư viện xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả bài báo "Nghiên cứu áp dụng sơ đồ ban đầu hoá xoáy NC2011 trong mô hình WRF để khảo sát khả năng dự báo cường độ cơn bão DAMREY năm 2017" do Nguyễn Bình Phong , Nguyễn Tiến Mạnh của Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội , Nguyễn Văn Hiệp của Viện Vật lý địa cầu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Nguyễn Văn Thắng của Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu thực hiện. Bài báo được đăng trên Tạp chí Khí tượng Thủy văn Số 688 tháng 4 năm 2018, tr. 9-23. Nội dung chi tiết bài báo xin vui lòng đọc tại đây. Trong bài báo này nhóm tác giả trình bày một số kết quả thử nghiệm áp dụng sơ đồ ban đầu hóa bão NC2011 để mô phỏng cấu trúc cơn bão số 12 (Damrey) năm 2017 bằng mô hình WRF với ba sơ đồ tham số hóa đối lưu Betts-Miller-Janjic, Kain-Fritsch và Grell-Devenyi. Kết quả cho thấy mô phỏng trị số khí áp cực tiểu tại tâm bão khá tốt đặc biệt với sơ đồ Betts-Miller-Janjic. Trong giai đoạn phát triển và chín muồi mô hình mô phỏng bão mạnh hơn so với thực tế, khi bão suy yếu và tan rã, mô phỏng của mô hì Thư viện xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả bài báo "Nghiên cứu áp dụng sơ đồ ban đầu hoá xoáy NC2011 trong mô hình WRF để khảo sát khả năng dự báo cường độ cơn bão DAMREY năm 2017" do Nguyễn Bình Phong , Nguyễn Tiến Mạnh của Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội , Nguyễn Văn Hiệp của Viện Vật lý địa cầu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Nguyễn Văn Thắng của Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu thực hiện. Bài báo được đăng trên Tạp chí Khí tượng Thủy văn Số 688 tháng 4 năm 2018, tr. 9-23. Nội dung chi tiết bài báo xin vui lòng đọc tại đây. Trở về đầu trang